Năm 2021, Trung tâm Công nghệ Sinh học Đà Nẵng đã thực hiện thành công nhiệm vụ “Tuyển chọn lai tạo các chủng nấm Sò mới có triển vọng từ chủng nấm Sò tím và Sò trắng tại địa phương” trên 200 phép lai tạo bắt cặp ngẫu nhiên từ hơn 500 dòng đơn bội của các chủng nấm Sò địa phương. Kết quả nghiên cứu bước đầu đã tuyển chọn được 05 chủng nấm Sò lai có triển vọng về năng suất và chất lượng. Các chủng này sẽ được tiến hành các nghiên cứu khảo nghiệm trước khi đưa vào sản xuất thực tế.
Nấm ăn nói chung và nấm Sò Pleurotus spp. (hay còn được gọi là nấm bào ngư) nói riêng là những thực phẩm cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào cho cơ thể con người. Đa số các loại nấm Sò đều chứa một lượng lớn proteins, khoáng chất, vitamins và chất xơ, nhưng lại rất ít chất béo và cholesterol (Gupta et al., 2010; Nasim et al., 2001).
Bên cạnh hàm lượng dinh dưỡng, nấm Sò còn được biết đến bởi các thành phần dược chất (polysaccharide, lovastatin, pleurotin,…) và những ứng dụng trong mỹ phẩm, công nghiệp. Tuy nhiên, nấm Sò hiện vẫn đang xếp thứ 2 trên thế giới về độ phổ biến nuôi trồng sau nấm mỡ Agaricus bisporus vì năng suất chưa cao và không đồng nhất về chất lượng quả thể (hình thái, kết cấu, màu sắc và mùi vị) (Julio, Sergio, 2006).
Tiêu biểu như giống nấm Sò tím thường có mũ nấm màu tím nâu đến tím sẫm với quả thể dày, đường kính 4-5cm và năng suất 20-25%/1 tấn nguyên liệu khô, ngược lại, nấm Sò trắng có mũ nấm màu trắng muốt đến trắng ngà với quả thể mỏng, đường kính 2-3cm và năng suất 35-40%/1 tấn nguyên liệu khô. Nhằm nâng cao chất lượng và năng suất sản xuất, việc nghiên cứu lai tạo giữa các chủng giống nấm Sò không chỉ tạo ra các chủng nấm Sò mới tốt hơn mà còn hạn chế việc thoái hoá giống sau thời gian nuôi trồng dài hạn 3-5 năm (Ngô Xuân Nghiễn và cộng sự, 2017).
Từ năm 2020, Trung tâm Công nghệ Sinh học Đà Nẵng đã bắt đầu thực hiện đánh giá chất lượng các chủng giống nấm Sò hiện đang được nuôi trồng phổ biến trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó chọn ra 01 chủng nấm Sò tím và 01 chủng nấm Sò trắng để tiến hành thu thập và gây nảy mầm dòng đơn bội từ các đơn bào tử trong phòng thí nghiệm. Năm 2021, nhóm nghiên cứu tập trung kế thừa kết quả từ năm 2020 với bộ sưu tập hơn 500 dòng đơn bội và thử nghiệm khả năng lai tạo giữa các dòng đơn bội từ 02 chủng nấm Sò nói trên. Kết quả thu được 139 phép lai tạo có xuất hiện mấu khoá giữa hai dòng đơn bội trên tổng 220 phép lại tạo đã thực hiện (quá trình lai tạo được lặp lại 3 lần/phép lai).

(A) – Mặt trên chùm quả thể; (B) – Mặt dưới chùm quả thể; (C) – Cấu tạo mô thịt;
(D) – Lát cắt ngang mũ nấm; (E) – Phiến nấm; (F) – Cấu tạo đảm; (G) – Bào tử đảm.
Sau khi tiến hành đánh giá chất lượng hệ sợi các chủng nấm Sò lai trong phòng thí nghiệm, đánh giá năng suất nuôi trồng cũng như các chỉ số về hàm lượng dinh dưỡng và dược chất trên quả thể nấm, 05 chủng nấm Sò lai triển vọng đã được chọn lựa, giải trình tự gen bằng phương pháp Sanger và định danh tên khoa học. Đánh giá sơ bộ cho thấy các chủng nấm Sò lai này không chỉ cho năng suất vượt trội, chất lượng hệ sợi đảm bảo mà còn chứa hàm lượng dinh dưỡng cao hơn 2 chủng đối chứng. Hiện các chủng nấm này đang được bảo quản tại Trung tâm Công nghệ Sinh học Đà Nẵng.

Trong định hướng tới, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành khảo nghiệm khả năng thích nghi, năng suất và chất lượng của một số chủng nấm Sò mới ở quy mô pilot. Cụ thể hơn, nhóm sẽ đánh giá khả năng thích nghi, năng suất và chất lượng của các chủng nấm Sò mới theo mùa vụ và đánh giá tính ổn định của các chủng nấm Sò mới qua 3 thế hệ nuôi trồng. Đây sẽ là một trong những bước để công nhận giống mới nhằm tiến đến việc đưa các giống này vào sản xuất thực tế.
Thanh Thủy